Friday, 1 May 2015

A Supplication to the Stupa of Swayambhunath

༄༅། །བལ་ཡུལ་མཆོད་སྡོང་འཕགས་པ་ཤིང་ཀུན་ལ་གསོལ་བ་འདེབས་པ་བཞུགས་སོ། །
LỜI NGUYỆN ĐẾN BẢO THÁP SWAYAMBHUNATH


ཨེ་མ་ཧོ།
EMAHO!

རང་བྱུང་ཆོས་སྐུའི་མཆོད་སྡོང་ཆེན་པོ་ནི། །
རྒྱལ་བ་རྣམས་ཀྱི་ཐུགས་ཀྱིས་བྱིན་བརླབས་ཤིང་། །
རྡོ་རྗེའི་ཟམ་ཞེས་གྲགས་པ་ཆེན་པོ་དེར། །
ངོ་མཚར་བསམ་མི་ཁྱབ་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །

Rang-jung cho-kuy cho-dong chen-po ni
Gyal-wa nam kyi thug kyi jin-lab shing
Dor-jey zam-zhe drag-pa chen-po der
Ngo-tshar sam-mi khyab la sol-wa deb

This great stupa of self-arising dharmakaya,
Blessed by the mind of all Victorious Ones,
Is greatly renowned as the Vajra Bridge –
We pray to the Inconceivable Amazement.

Đại Bảo Tháp của Pháp thân hằng hiện hữu,
Đầy ân phước giác tánh của chư Chiến Thắng
Vang danh lẫy lừng như Chiếc Cầu Kim Cương –
Chúng con khẩn cầu Vi Diệu Bất Khả Thuyết.

ཤཱནྟ་པུ་རིའི་གྲོང་ཁྱེར་ས་སྤྱོད་ཞིང་། །
ཧེ་རུ་ཀ་ཡི་སྤྲུལ་པའི་དཀྱིལ་འཁོར་བཞུགས། །
འཕགས་པ་ཤིང་ཀུན་གཟུགས་སྐུའི་མཆོད་སྡོང་ཆེ། །
གོ་མ་ས་ལ་གནྡྷོར་གསོལ་བ་འདེབས། །

Shan-ta pu-ri drong-khyer sa-cho zhing
He-ru ka yi trul-pay kyil-khor zhug
Phag-pa shing-kun zug-kuy cho-dong che
Go-ma sa-la gan-dhor sol-wa deb

The incarnated mandala of Herukas dwells
In the land of the town of Shantapuri,
The great rupakaya stupa of Swayambhu –
We pray to the Gomasala Gandhora.

Mạn đà la của chư Minh Vương an trụ
Vùng đất của xứ sở Shantapuri,
Bảo tháp sắc thân Swayambhu hùng vĩ  –
Chúng con khẩn cầu Gomasala Gandhora.

དུས་གསུམ་རྒྱལ་བ་རྣམས་ཀྱིས་ཞབས་བཅག་ཅིང་། །
སྔོན་བྱོན་སངས་རྒྱས་རབས་བདུན་རིང་བསྲེལ་གྱི། །
ནོར་བུས་ཕྱུར་བུར་གཏམས་པའི་མཆོད་སྡོང་ཆེ། །
གུས་པས་ཕྱག་མཆོད་རྟག་ཏུ་གསོལ་བ་འདེབས། །

Du-sum gyal-wa nam kyi zhab-chag ching
Ngon-jon sang-gye rab-dun ring-sel gyi
Nor-bue chur-bur tam-pay cho-dong che
Gu-pe chag cho tag-tu sol-wa deb

All the Victorious Ones of three times set foot here
Where relics of the Seven Succesive Buddhas in the past
Are all gathered and filled within the Great Stupa –
We devotedly make offering, pay homage and pray to you forever.

Chư Chiến Thắng ba thời đều ngự đến đây,
Nơi gìn giữ trọn vẹn trong Đại Bảo Pháp
Là những xá lợi của bảy Đấng Thế Tôn –
Nguyện muôn đời chí thành lễ, cúng, cầu nguyện.

སྡིག་བཤགས་ཡི་རང་ཆོས་འཁོར་བསྐོར་བར་བསྐུལ། །
བཞུགས་གསོལ་འདེབས་ཤིང་དགེ་ཚོགས་འགྲོ་ལ་བསྔོ། །
སྐུ་གསུམ་གོ་འཕང་དམ་པ་མངོན་བྱེད་ཤོག །

Dig-shag yi rang cho-khor kor-wa kul
Zhug-sol deb-shing ge-tshog dro la ngo
Ku-sum go-phang dam-pa ngon-je shog

We confess misdeeds, rejoice in virtue, request to turn Dharma wheels,
Supplicate to remain firmly, dedicate all merits to sentient beings  –
May we realize the ultimate stage of the Three Kayas.

Chúng con sám nghiệp và tùy hỉ công đức,
Thỉnh chuyển Pháp và trụ thế, hồi hướng hạnh lành –
Nguyện muôn đời chí thành lễ, cúng, cầu nguyện.

རྟེན་མཆོག་འདི་ཡིས་འཛམ་བུའི་གླིང་ཀུན་བདེ། །
ཀུན་མཁྱེན་ཐུབ་པའི་བསྟན་པ་དར་ཞིང་རྒྱས། །
བསྟན་ལ་གནོད་པ་མཐའ་དག་ཞི་བ་དང་། །
ཕན་བདེའི་དགེ་མཚན་རྒྱས་པའི་བཀྲ་ཤིས་ཤོག །

Ten-chog di-yi dzam-bu ling kun de
Kun-khyen thub-pay ten pa dar-zhing gye
Ten la no-pa tha-dag zhi-wa dang
Phen-dey ge-tshan gye-pay tra-shi shog

May this supreme object bring happiness to the whole world,
May the teachings of the Ominiscient Shakyamuni flourish,
May all harms to the Dharma be pacified
And the positive and auspicious signs of welfare increase.

Nguyện pháp bảo tối thắng này đem hạnh phúc
Và Chánh Pháp Thích Tôn tỏa khắp thế gian,
Nguyện mọi tác hại cho Pháp đều tịch diệt
Và niềm an lạc tăng trưởng thật tốt lành.

ཅེས་པའང་ཆོས་ཀྱི་བློ་གྲོས་པས་རྟེན་མཆོག་ཉིད་ཀྱི་དྲུང་དུ་གསོལ་བ་བཏབ་པའོ།། །།
Chokyi Lodro prayed as such in the presence of the Stupa.
Khyentse Chokyi Lodro cầu nguyện như thế trước Đại Bảo Tháp.

Kim Cương Bảo chuyển Việt ngữ ngày 01/05/2015 với ước nguyện mọi sự an lành và cát tường cho nhân loại cũng như muôn loài khác.
Read More

Tuesday, 28 April 2015

A Supplication to the Stupa of Boudhanath

༄༅།  །མཆོད་རྟེན་བྱ་རུང་ཁ་ཤོར་ལ་གསོལ་བ་འདེབས་པ་བཞུགས་སོ། །

LỜI NGUYỆN ĐẾN ĐẠI BẢO THÁP BOUDHANATH


ན་མོ་གུ་རུ།
NAMO GURU!

རྒྱལ་བ་རྣམས་ཀྱི་ཐུགས་མཆོག་ཆོས་ཀྱི་སྐུ།  །
མཚོན་པར་བྱེད་པའི་མཆོད་སྡོང་ཆེན་པོ་ནི།  །
སྲིད་ཞིའི་ཁམས་ན་ཉི་མ་ལྟར་ལྷམ་མེ།  །
མཐོང་གྲོལ་ཆེན་པོ་དེ་ལ་གསོལ་བ་འདེབས།  །

Gyal-wa nam kyi thug-chog cho-kyi ku
Tshon-par je-pay cho-dong chen-po ni
Si-zhi nam na nyi-ma tar-lham me
Thong-drol chen-po de la sol-wa deb

This Great Stupa symbolizing Dharmakaya, 
The supreme mind of all Victorious Ones,
Shines like the sun throughout samsara and nirvana –
We pray to the Great Liberation Through Seeing.

Đại Bảo Tháp này đại diện cho Pháp thân,
Nhất thiết chủng trí của hết thảy chư Phật,
Quang minh biến chiếu luân hồi và niết bàn –
Xin khẩn cầu đến Pháp bảo nhìn giải thoát.

སངས་རྒྱས་འོང་སྲུང་ཆེན་པོའི་རིང་བསྲེལ་གྱིས།  །
ཕྱུར་བུར་གཏམས་པའི་སྐུ་གདུང་རིན་པོ་ཆེ།  །
མཁའ་འགྲོ་བདེ་མཆོག་ཐུགས་བསྐྱེད་ལས་བསྐྲུན་པའི།  །
རྟེན་མཆོག་ཡིད་བཞིན་ནོར་བུར་གསོལ་བ་འདེབས།  །

Sang-gye ong-sung chen-poy ring-sel gyi
Chur-bur tam-pay ku-dung rin-po che
Khan-dro dem-chog thug-kye le trun-pay
Ten-chog yi-zhin nor-bur sol-wa deb

The precious reliquary filled up with sacred objects
Such as the spontaneous relics of the Maha Buddha Kasyapa
Appeared by the aspirations of the Dakini Supreme Bliss – 
We pray to the Jewel of Wish-Fufilling.

Tôn xá lợi của Đức Cổ Phật Ca Diếp,
Do bởi Thiên Nữ Thắng Lạc cầu chí thành
Trang nghiêm chốn thánh cùng các bảo tích khác –
Xin khẩn cầu đến viên như ý minh châu.

མཁན་སློབ་ཆོས་རྒྱལ་རྣམས་ཀྱི་བྱང་ཕྱོགས་སུ།  །
ཐུབ་བསྟན་སྤེལ་བའི་གཡར་དམ་སེམས་བསྐྱེད་བཞེས།  །
ལྷ་མི་རྣམས་ཀྱིས་བསོད་ནམས་བསགས་པའི་ཞིང༌།  །
མཚུངས་ཟླ་མེད་ལ་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ཞིང༌།  །

Khen lob cho-gyal nam kyi jang-chog su
Thub-ten pel-way yar-dam sem-kye zhe
Lha mi nam kyi so-nam sag-pay zhing
Tshung-da me la gu-pe chag-tshal zhing

It was here that the Abbot, Master and Dharma King
Made the aspiration to spread the Dharma to the North – 
With incomparable and wholehearted devotion, we prostrate
To the field where all Gods and Humans accumulate merits.

Viện Trưởng, Đạo Sư từng cùng với Pháp Vương
Phát lời nguyện thiêng hoằng pháp về phương Bắc
Chính tại nơi đây, cội phúc của Trời Người –
Chúng con nay nguyện chí thành cung kính lễ.

མཆོད་དང་སྡིག་བཤགས་དགེ་ལ་རྗེས་ཡི་རངས།  །
ཆོས་བསྐུལ་མྱ་ངན་མི་འདའ་གསོལ་བཏབ་དང༌།  །
དགེ་ཚོགས་ནམ་མཁའི་མཐར་ཐུག་འགྲོ་ལ་བསྔོ།  །

Cho dang dig-shag ge la je-yi rang
Cho-kul nya-ngan mi da sol-tab dang
Ge-tshog nam-khai thar-thug dro la ngo

We make offerings, confess misdeeds, rejoice at virtues,
Request the masters to teach and not to pass into nirvana,
Dedicate all of merits to the infinite space-like beings –

Hành pháp cúng dường, sám hối, tùy hỉ đức,
Thỉnh chuyển pháp luân, cầu trụ thế dài lâu,
Hồi hướng công đức cho chúng sinh vô lượng –

སངས་རྒྱས་བསྟན་དར་བསྟན་འཛིན་ཞབས་པད་བརྟན།  །
དུས་འཁྲུགས་ཞི་ཞིང་བདེ་དགའི་དཔལ་ཡོན་རྒྱས།  །
འབྲེལ་པས་བསྡུས་པའི་གཤིན་གསོན་ཕོ་མོ་རྣམས།  །
བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་མཆོག་ལ་མྱུར་འགོད་ཤོག  །

Sang-gye ten-dar ten-dzin zhab-pe ten
Du-trug zhi-zhing de-gay pal-yon gye
Drel-pe du-pay shin-son pho-mo nam
La-me jang-chub chog la nyur-go shog

May the Buddhadharma and Masters remain firmly,
May the turmoil of this age be pacified, the splendor of happiness be increased,
May all the males and females, living or dead, who has connection with you
Be swiftly established on the supreme and unsurpassable enlightenment.

Nguyện cầu Đạo Sư và Pháp hằng trụ thế,
Xung đột giải trừ và an lạc thường tăng,
Nam nữ, còn hay mất, nếu có kết nối,
Thật mau chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

ཅེས་པའང་རྟེན་མཆོག་ཉིད་ཀྱི་དྲུང་དུ་ཆོས་ཀྱི་བློ་གྲོས་བས་སྨོན་པའོ།།  །།
Chokyi Lodro made this prayer in the presence of the Stupa.
Khyentse Chokyi Lodro dâng lời nguyện trước Đại Bảo Tháp.

Bài nguyện này được Dzigar Kongtrul Rinpoche khuyên trì tụng trước tình hình thiên tai nghiêm trọng tại Thung lũng Kathmandu. Trong sự kiện này, Đại Bảo Tháp cũng chịu những tác động dẫn đến gãy nứt như hầu hết các tu viện trong vùng, chẳng hạn Shechen hay Ka-Nying Shedrub Ling. Do đó, Kim Cương Bảo đã chuyển Việt ngữ ngày 28/04/2015, thánh vía Guru Chime Pema Jungne - Liên Hoa Sinh Bất Tử, với lời nguyện cát tường bình an và như ý thành tựu.
Read More

Sunday, 11 January 2015

Praise to Sarasvati entitled The Infinite One


༄༅། །དབྱངས་ཅན་བསྟོད་པ་རྒྱ་མཚོ་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། །

XƯNG TÁN DIỆU ÂM THIÊN NỮ 

tựa đề 

VÔ CỰC TÔN

ཧྲཱིཾ། རྒྱལ་བ་རྒྱ་མཚོའི་ཡུམ་གྱུར་ཤེར་ཕྱིན་མ། །
རྒྱལ་སྲས་རྒྱ་མཚོའི་གྲོགས་གྱུར་རྗེ་བཙུན་མ། །
འགྲོ་ཁམས་རྒྱ་མཚོའི་མགོན་གྱུར་བཅོམ་ལྡན་མ། །
ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོའི་མཆོག་མངའ་ཁྱོད་ལ་འདུད། །

HRING! Gyal-wa gya-tshoy yum gyur sher-chin ma
Gyal-se gya-tshoy drog gyur je-tsun ma
Dro-kham gya-tshoy gon gyur chom-den ma
Yon-ten gya-tshoy chog-nga khyo la dud

HRING! Prajnaparamita, the mother of infinite Victorious Ones;
Jetsunma, the companion of infinite Bodhisattvas;
Bhagavati, the protector of all realms –
Homage to you, the perfect one of infinite qualities.

HRING! Bát Nhã Trí, từ mẫu vô lượng chư Chiến Thắng;
Đức Cao Thượng đồng hành chư Bồ Tát vô biên;
Đấng Thế Tôn bảo hộ hằng hà sa các cõi –
Kính lễ Ngài, bậc toàn hảo vô tận các phẩm tính.

ངག་ཚིག་རྒྱ་མཚོའི་འབྱུང་གནས་ངག་གི་ལྷ། །
བློ་གྲོས་རྒྱ་མཚོའི་དཔལ་སྟེར་བློ་ཡི་ལྷ། །
ལྷ་མཆོག་རྒྱ་མཚོས་མངོན་མཆོད་ལྷ་ཡི་ལྷ། །
རྒྱ་མཚོའི་ལྷ་མོ་དབྱངས་ཅན་ཁྱོད་ཕྱག་འཚལ། །

Ngag-tshig gya-tshoy jung-ne ngag-gi lha
Lo-dro gya-tshoy pal-ter lo-yi lha
Lha-chog gya-tsho ngon-cho lha-yi lha
Gya-tshoy lha-mo yang-chen khyo la dud

Goddess of Speech, the source of infinite expressing words;
Goddess of Knowledge, the glorious bestower of infinite intelligence;
Goddess of Offering Deities, the manifestation of infinite supreme deities –
Homage to you, the Infinite Goddess Sarasvati.

Diệu Ngữ Thiên, cội nguồn của vô số ngôn từ;
Minh Tuệ Thiên, đấng vinh quang ban đại hải tuệ;
Phụng Cúng Thiên, hiển lộ vô biên tối thắng Tôn –
Kính lễ Ngài, Đấng Vô Cực Tôn, Diệu Âm Thiên Nữ.

མཛེས་སྡུག་རྒྱ་མཚོའི་སྐུ་མཆོག་ཅིར་ཡང་སྟོན། །
སྒྲ་དབྱངས་རྒྱ་མཚོས་དམ་ཆོས་སྒོ་བརྒྱ་འབྱེད། །
ཡེ་ཤེས་རྒྱ་མཚོའི་རང་བཞིན་ཕ་མཐའ་ཡས། །
སེམས་ཅན་རྒྱ་མཚོ་སྨིན་མཛད་ཁྱོད་ལ་འདུད། །

Dze-dug gya-tshoy ku-chog chir-yang ton
Dra-yang gya-tsho dam-cho go-gya je
Ye-she gya-tshoy rang-zhin pha tha-ye
Sem-chen gya-tsho min-dze khyo la dud

The supreme body of infinite beauties that are displayed,
Opening a hundred gates to Dharma with infinite melodious sounds,
You are the boundless nature of infinite wisdom –
Homage to you, the One who Matures infinite sentient beings.

Sắc thân thắng diệu tối thượng của mọi vẻ đẹp,
Hiện bày Giáo Pháp bằng vô số ngữ diệu âm,
Ngài là bản tánh vô biên của thánh trí vô cùng –
Kính lễ Ngài, đấng viên mãn căn cơ cho chúng sinh.

འཇིག་རྟེན་རྒྱ་མཚོར་རྣམ་རོལ་མཐའ་ཡས་པས། །
ངོ་མཚར་རྒྱ་མཚོའི་མཛད་པ་སྣ་ཚོགས་སྟོན། །
ཕན་བདེ་རྒྱ་མཚོས་འགྲོ་ཀུན་རྟག་ཏུ་སྐྱོངས། །
རྣམ་ཐར་རྒྱ་མཚོའི་དཔལ་མོ་ཁྱོད་ལ་འདུད། །

Jig-ten gya-tshor nam-rol tha-ye pe
Ngo-tshar gya-tshoy dze-pa na-tshog ton
Phen-de gya-tsho dro-kun tag-tu kyong
Nam-thar gya-tshoy pal-mo khyo la dud

Displaying in infinite worlds with boundless manifestations,
Performing infinite marvels with various teachings,
You always guard the welfare and happiness for all beings –
Homage to you, the glorious Goddess of infinite perfect liberation.

Hóa hiện vô lượng vô số muôn trùng thế giới,
Phô diễn hằng sa oai thần bằng các huấn thị,
Ngài luôn chăm nom an vui hạnh phúc hữu tình –
Kính lễ Ngài, Phật mẫu vinh quang vô biên toàn giác.


མཁྱེན་བརྩེའི་རྒྱ་མཚོ་རྡོ་རྗེ་དབྱངས་ཅན་མར། །
དད་པ་རྒྱ་མཚོས་རྟག་ཏུ་ཕྱག་འཚལ་ཏེ། །
མཆོད་པ་རྒྱ་མཚོས་ཀུན་ནས་མཆོད་བགྱིད་ཅིང་། །
བསྟོད་པ་རྒྱ་མཚོས་རབ་ཏུ་བསྟོད་བགྱིད་ན། །

Khyen-tse gya-tsho dor-je yang-chen-mar
De-pa gya-tsho tag-tu chag-tshal te
Chod-pa gya-tsho kun-ne cho-gyi ching
Tod-pa gya-tsho rab-tu to-gyi na

With endless faith, we will forever pay homage,
Fully make offering with boundless offerings,
And utter praise with infinite praises at our best,
To the ocean of compassion and wisdom, Dorje Yangchenma.

Muôn vàn kính mộ, chúng con xin mãi đảnh lễ,
Kính dâng trọn vẹn vô số phẩm vật cúng dường
Và cất lên hằng sa lời xưng tán tuyệt diệu đến
Dorje Yangchenma, đại dương trí tuệ và từ bi.

ཐུགས་བསྐྱེད་སྨོན་ལམ་རྒྱ་མཚོ་རྗེས་དགོངས་ཏེ། །
བྱིན་རླབས་ཡེ་ཤེས་རྒྱ་མཚོའི་སྤྲིན་ཆེན་ལས། །
དངོས་གྲུབ་རྒྱ་མཚོའི་གྲུ་ཆར་དེང་ཕབ་ནས། །
རེ་འདོད་རྒྱ་མཚོ་ཡིད་བཞིན་སྐོང་བར་མཛོད། །

Thug-kye mon-lam gya-tsho je-gong te
Jin-lab ye-she gya-tshoy trin-chen le
Ngo-drub gya-tshoy dru-char deng phab-ne
Re-do gya-tsho yi-zhin kong-war dzo

As we remember you in infinite prayers and aspirations,
There is the rain of endless accomplishments
Down from the huge cloud of infinite wisdom blessings,
Fufilling each of infinite wishes just as we desire,

Khi chúng con nhớ nghĩ Ngài bằng muôn nguyện ước,
Cơn mưa vô lượng vô số thành tựu đổ tuôn
Từ đám mây ân phước trí tuệ hùng vĩ vô biên,
Giúp cho chúng con vô tận sở cầu đều như ý,

བཟུངས་སྤོབས་བློ་གྲོས་རྒྱ་མཚོའི་མཆོག་སྩོལ་ཞིང་། །
ངག་ཚིག་རྒྱ་མཚོ་སྨྲ་ལ་རང་དབང་ཐོབ། །
དཔལ་ཡོན་རྒྱ་མཚོའི་གཏེར་དུ་བདག་གྱུར་ཏེ། །
ནུས་སྟོབས་རྒྱ་མཚོས་རྒྱལ་བསྟན་སྤེལ་གྱུར་ཅིག །

Zung-pob lo-dro gya-tshoy chog-tsol zhing
Ngag-tshig gya-tsho mar la rang-wang thob
Pal-yon gya-tshoy ter du dag-gyur te
Nu-tob gya-tsho gyal-ten pel-gyur chig

Bestowing us the supreme of infinite intelligence and courageous speeches.
When we gain the independence in talking with infinite expressing words
And ourselves transform into treasure of infinite glorious qualities,
May we spread the doctrine of Buddha with infinite powers.

Tối thắng trong vô lượng thông tuệ và biện tài.
Khi chúng con được chánh ngữ vô ngại tuyên thuyết
Và tự thân trở thành kho tàng vô số thắng phẩm,
Nguyện hoằng truyền Phật Pháp bằng oai đức vô biên.

སྐྱེ་བ་རྒྱ་མཚོར་ཁྱོད་ཀྱིས་རྗེས་འཛིན་ཅིང་། །
ལུང་རྟོགས་རྒྱ་མཚོའི་མཛོད་ལ་མངའ་དབང་བསྒྱུར། །
རྫོགས་སྨིན་སྦྱངས་པ་རྒྱ་མཚོ་མཐར་ཕྱིན་ཏེ། །
བདེ་གཤེགས་རྒྱ་མཚོར་མཉམ་ཉིད་སྐུ་ཐོབ་ཤོག །

Kye-wa gya-tshor khyo kyi je-dzin ching
Lung-tog gya-tshoy dzo la nga-wang gyur
Dzog-min jang-pa gya-tsho thar-chin te
De-sheg gya-tshor nyam-nyid ku thob shog

May you take care of us in every lifetime,
Empower us with treasures of infinite scriptures and realization.
When we perfect infinite completions, maturations and purifications,
May we obtain the same body of infinite Sugatas.

Xin Ngài chăm sóc chúng con trong mọi cuộc đời,
Gia lực bằng kho tàng vô tận kinh văn và tỉnh thức.
Khi viên mãn các tịnh hóa, thuần thục và hoàn thiện,
Nguyện đạt chân thân đồng như chư Thiện Thệ vô biên.

ལྷ་མཆོག་རྒྱ་མཚོའི་ལྷ་མོར་བསྟོད་པ་འདི། །
མི་ཕམ་རྒྱ་མཚོའི་མིང་ཅན་བདག་གིས་བྲིས། །
བློ་མཆོག་རྒྱ་མཚོ་ཆེ་ལ་རོལ་འདོད་པས། །
བསྟོད་པ་རྒྱ་མཚོ་འདི་བསྟེན་དོན་ཡོད་འགྱུར། །

Lha-chog gya-tshoy lha-mor tod-pa di
Mi-pham gya-tshoy ming chen dag-gi dri
Lo-chog gya-tsho che la rol-do pe
Tod-pa gya-tsho di ten don-yo gyur

This praise to the Goddess of infinite supreme deities
Was composed by the one named Mipham Gyatso himself.
Who wishes to enjoy the great ocean of supreme intelligence
Should rely on and realize the meaning of this infinite praise.

Lời xưng tán Đức Phật Mẫu của vô lượng thượng Tôn
Được chính người tên Mipham Gyatso biên soạn.
Ai mong vui hưởng đại dương thông tuệ tối thắng
Thời nên hiểu nghĩa lý nơi lời xưng tán vô biên này.

ས་བྱ་ཟླ་༡༢ཚེས་༩གུང་ཐུན་ལ་དབྱངས་ཅན་དཀར་མོ་བསྙེན་པའི་ཐུན་གསེང་དུ་བྲིས་པ་དགེའོ།།

This was written during interval of approaching recitation on the White Sarasvati in the morning session of the 9th date of the 12th month of the Earth Bird year. Virtue!

Bài này được viết trong giờ nghỉ giữa buổi thực hành trì tụng Đức Diệu Âm Thiên Nữ màu Trắng trong thời khóa buổi sáng ngày 9 tháng 12 năm Chim Đất. Nguyện điều thiện đức!

Translated into English by Mingyur Oswin, 2015.

Ngày 11/01/2015, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin nhân một dịp đặc biệt. Bản thân bài nguyện trên cũng rất đặc biệt khi chữ Gyatso (nghĩa là vô lượng, vô biên, vô cùng, vô tận, hằng hà sa, không thể tính đếm) được lặp đi lặp lại và danh hiệu của Mipham Rinpoche cũng được đưa vào. Lúc  02:00 chiều cùng ngày, khi dịch đến chỗ "Cơn mưa vô lượng vô số thành tựu đổ tuôn..." thì một trận mưa cũng tuôn xuống. Do đó, bản thân tôi cảm nhận rằng bài nguyện này có sức gia trì thực sự to lớn, đặc biệt là những người có kết nối với Đức Manjushri Mipham.

Nguyện nhờ công đức chuyển ngữ này, tất cả chúng sinh đều vui hưởng biển sâu của sự thông tuệ tối thắng, mãi mãi không tách rời Phật mẫu Dorje Yangchenma trong mọi cuộc đời cho đến ngày thành tựu viên mãn ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Siddhirastu!
Read More

Friday, 9 January 2015

Praises to Manjushri


༄༅། །འཇམ་བསྟོད། །

KỆ TÁN ĐỨC VĂN THÙ SƯ LỢI

The following verses were extracted from the collected praises to Manjushri in Mipham Collected Works. They were written by Venerables Vilasavajra, Shantarakshita, Sangye Yeshe, Manjushrimitra, Nagarjuna, Chandrakirti and Dharma King Trisong Deutsen.

Những bài kệ sau được trích từ các bài xưng tán Đức Văn Thù Sư Lợi tổng hợp trong Tuyển tập Công trình của Mipham Rinpoche. Các bài kệ này được viết bởi các vị Tôn giả Vilasavajra, Shantarakshita, Sangye Yeshe, Manjushrimitra, Nagarjuna, Chandrakirti và Pháp vương Trisong Deutsen.

 སྤྲོས་མེད་ཆོས་སྐུ་ཞི་བ་ལས། །
ཐུགས་རྗེའི་འགྲོ་དོན་ཞི་ཁྲོའི་ཚུལ། །
སྣ་ཚོགས་སྤྲུལ་པའི་སྐུ་འཆང་བའི། །
འཇམ་པའི་དཔལ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །

Tro-med cho-ku zhi-wa le
Thug-jey dro-don zhi-tro tshul
Na-tshog trul-pay ku chang-way
Jam-pay pal la chag-tshal lo

From the unconstructed peaceful Dharmakaya,
By wrathful and peaceful manners for benefit of beings of compassion,
You appear as various emanations – 
Homage to Manjushri.

Trụ Pháp thân an bình tự nhiên,
Với nhiều vẻ hiền minh phẫn nộ,
Hiện các thân lợi ích độ tha –
Cung kính đảnh lễ Đấng Văn Thù.

སྒེག་རྡོར་གསུང་།
Words of Vilasavajra.
Thánh ngữ Tôn giả Vilasavajra.

 དུས་གསུམ་བདེ་གཤེགས་ཐམས་ཅད་ཀྱི། །
ཡེ་ཤེས་ཀུ་ཡི་ངོ་བོ་ཉིད། །
ངག་གི་དབང་ཕྱུག་གཟུགས་མཛེས་ལྡན། །
འཇམ་པའི་དབྱངས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །

Du-sum de-sheg tham-che kyi
Ye-she ku yi ngo-wo nyi
Ngag-gi wang-chuk zug-dze den
Jam-pay yang la chag-tshal lo

The essence of wisdom body
Of all the Sugata in three times,
The lord of speech in wonderful form – 
Homage to Manjushri.

Tinh hoa của thắng thân trí tuệ
Nơi chư Thiện Thệ khắp ba đời,
Đấng ngữ tự tại với diệu sắc –
Cung kính đảnh lễ Đấng Văn Thù.

མཁན་ཆེན་ཞི་འཚོའི་གསུང་།
Words of Khenchen Shantarakshita.
Thánh ngữ Tôn giả Shantarakshita.

 དཔལ་ལྡན་འཁྲུལ་བསལ་དྲི་མེད་འོད། །
མཐའ་ཡས་འདས་ཀྱི་སྤྲུལ་པ་འཕྲོ། །
ཤེས་རབ་མཆོག་ལྡན་འབར་ཞིང་མཛེས། །
འཇམ་དཔལ་དེ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །

Pal-den trul-sal dri-med o
Tha-ye de kyi trul-pay tro
She-rab chog-den bar-zhing dze
Jam-pal de la chag-tshal lo

By sending infinite emanations
In glorious, unmistaken and stainless light,
You blaze the supreme wisdom in every realm – 
Homage to Manjushri as such.

Từ ánh quang minh vô cấu đẳng,
Thị hiện vô lượng ứng hóa thân
Chiếu tỏa thánh trí khắp các cõi –
Cung kính đảnh lễ Đấng Văn Thù.

སངས་རྒྱས་ཡེ་ཤེས་ཞབས་ཀྱི་གསུང་།
Words of the Venerable Sangye Yeshe.
Thánh ngữ Tôn giả Sangye Yeshe cao thượng.

 གཞོན་ནུར་སྐུར་སྤྲུལ་མེ་ཏོག་ཐོད། །
སྐུ་མདོག་གསེར་འདྲ་ཤེས་རབ་ལྷ། །
མི་ཤེས་རྒྱུན་གཅོད་རལ་གྲི་འཛིན། །
ཤེས་རབ་ཡེ་ཤེས་ལ་ཕྱག་འཚལ། །

Zhon-nur kur-trul me-tog tho
Ku-dog ser-dra she-rab lha
Mi-she gyun-cho ral-dri dzin
She-rab ye-she la chag-tshal

Appearing with youthfulness, forehead ornaments,
Body in golden colour, you are the Deity of Wisdom
Who holds the sword to cut off the ignorance – 
Homage to the One of Wisdom-Knowledge.

Hóa hiện trẻ trung và trang nghiêm,
Sắc thân vàng ròng, bậc Trí Thánh
Trì gươm chém đứt lưới vô minh –
Cung kính đảnh lễ Đấng Đại Trí.

འཇམ་དཔལ་བཤེས་གཉེན་གསུང་།
Words of Manjushrimitra.
Thánh ngữ Tôn giả Manjushrimitra.


 ཁོང་སྟོང་ཁྱོད་ཀྱི་སྐུ་ལ་མེད། །
ཤ་དང་རུས་པ་ཁྲག་མེད་ཀྱང་། །
ནམ་མཁའི་དབང་པོའི་གཞུ་བཞིན་དུ། །
སྐུར་སྟོན་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །

Khong-tong khyo-kyi ku la med
Sha dang ru-pa trag-med kyang
Nam-khai wang-poy zhu-zhin du
Kur-ton khyo la chag-tshal lo

Without flesh, bone and blood,
Your body is completely empty –
Homage to the you who appears
Just as the rainbow of the space.

Diệu sắc thân hoàn toàn trống rỗng,
Không thịt, xương và máu cũng không –
Kính lễ đến Ngài, bậc hiện hữu
Tựa ánh cầu vồng giữa hư không.

ཀླུ་སྒྲུབ་གསུང་།
Words of Nagarjuna.
Thánh ngữ Tôn giả Long Thọ.

 ཡོན་ཏན་དམ་པ་རེ་རེ་ཞིང་། །
མཐའ་ཡས་མཁའ་དང་མཉམ་པ་ཡི། །
བྱང་ཆུབ་སེམས་ཀྱི་བདག་ཉིད་ནི། །
འཇམ་དཔལ་དེ་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །

Yon-ten dam-pa re-re zhing
Tha-ye kha dang nyam-pa yi
Jang-chub sem kyi dag-nyi ni
Jam-pal de la dag chag-tshal

The lord of Bodhisattvas
In each of infinite space-like realms
With the excellent qualities –
I pay homage to Manjushri.

Trưởng tôn của các chúng Bồ Tát
Trong từng cõi Phật công đức mãn
Như hư không kia nhiều vô lượng –
Con cung kính lễ Đấng Văn Thù.

ཟླ་གྲགས་གསུང་།
Words of Chandrakirti.
Thánh ngữ Tôn giả Nguyệt Xứng.

 ཁྱོད་ལ་བསྟོད་ཅིང་གསོལ་བ་བཏབ་པའི་མཐུས། །
བདག་སོགས་གང་དུ་གནས་པའི་ས་ཕྱོགས་སུ། །
ནད་གདོན་དབུལ་ཕོངས་འཐབ་རྩོད་ཞི་བ་དང་། །
ཆོས་དང་བཀྲ་ཤིས་འཕེལ་བར་མཛད་དུ་གསོལ། །

Khyo la to-ching sol-wa tab-pay thu
Dag-sog gang-du ne-pay sa-chog su
Ne-don ul-phong thab-tso zhi-wa dang
Cho dang tra-shi phel-war dze-du sol

By the power of praising and praying to you,
Wherever it is, may I and others be free from
Fighting, strife, poverty, disease and evil spirits;
May Dharma spread and auspiciousness increase.

Nguyện nhờ oai đức lời khẩn cầu tán thán,
Con cùng mọi người, dù trong bất kỳ đâu,
Xa lìa bất hòa, nghèo đói, bệnh, ma chướng;
Tăng trưởng Giáo Pháp và mọi điều tốt lành.

ཆོས་རྒྱལ་ཁྲི་སྲོང་གསུང་ངོ།
Words of the Dharma King Trisong Deutsen.
Thánh ngữ Pháp vương Trisong Deutsen.

Translated into English by Mingyur Oswin, 2015.

Quan Orgyen khởi dịch ngày 06/01 và hoàn thành đêm ngày 08/01/2015 ~ ngày kỷ niệm Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin. Nguyện nhờ công đức chuyển ngữ các bài nguyện trên, tất cả chúng sinh đều an trú trong biển tâm rộng lớn của Đức Văn Thù Sư Lợi cho đến ngày thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí và viên mãn Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. OM A RA PA TSA NA DHI.
Read More

Thursday, 1 January 2015

Padmasambhava


ĐẤNG LIÊN HOA SINH

Tulku Urgyen Rinpoche

Trong thời đại này của thế giới chúng ta, một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Mỗi vị sẽ được đồng hành bởi một hóa thân của Guru Rinpoche để hiện bày hoạt động của chư Phật. Trong thời đại hiện tại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả hoạt động của chư Phật hiện diện nơi một hóa thân mang hình dáng Padmasambhava, Đấng Liên Hoa Sinh. Ngài đản sinh từ một hoa sen giữa một hồ nước. Trong câu chuyện cuộc đời mình, Ngài kể lại : “Ta xuất hiện từ một hoa sen, không có Cha và chẳng có Mẹ.” Theo cách này, Ngài đàn sinh tự nhiên nhưng cũng có một nguyên do khác cho điều này. Là một bậc đản sinh kỳ diệu giữa loài người, Ngài viên mãn những oai đức thần thông vĩ đại để hàng phục không chỉ nhân loại mà còn những tinh linh và chúng sinh phi nhân khác.

Liên Hoa Sinh trụ thế trong một thời gian rất dài. Sau khi đản sinh, Ngài tiếp tục hiện diện tại xứ Ấn Độ trong một ngàn năm. Sau đó, Ngài đến Tây Tạng và trụ lại đó trong năm mươi lăm [55] năm. Trong giai đoạn sau cùng lưu trú tại Tây Tạng, Ngài khởi hành đến một nơi gọi là Gungtang tại vùng biên giới của Nepal, tháp tùng bởi hai mươi lăm [25] đại tông đồ cùng với Vua xứ Tạng. Tại đó, cưỡi trên lưng một con ngựa thần thánh tên là Mahabhala, Ngài được các Dakini của bốn bộ hộ tống bay lên trời. Đoàn tùy tùng của Ngài, những người ở lại, nhìn hình ảnh của Ngài nhỏ dần cho đến khi Ngài biến mất.

Theo sử liệu, trước tiên, Ngài hạ xuống Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Ngài lưu trú trong một thời gian. Sau đó, Ngài du hành đến cõi tịnh độ của riêng mình có tên là Zangdok Palri, Núi Huy Hoàng Màu Đồng. Về mặt địa lý, nơi này hiện hữu tại một nơi nào đó trên đại dương phía Tây Nam của Bồ Đề Đạo Tràng. Nó là một dạng tiểu châu lục, nơi cư ngụ của các La Sát, “những tinh linh ăn thịt người” thuộc cấp độ thấp. Theo một tiên tri của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vào một giai đoạn cụ thể trong lịch sử, khi tuổi thọ của loài người còn hai mươi [20] năm, những tinh linh ăn thịt người này sẽ xâm lược thế giới mà ta biết hiện nay, thâu tóm và tiêu diệt toàn nhân loại. Như vậy, loài người sẽ đối mặt với một nguy cơ to lớn. Tuy nhiên, Đức Phật cũng tiên tri rằng Guru Rinpoche sẽ đến vùng đất này và hàng phục tất cả các La Sát đó. Ngài [Guru Rinpoche] đi đến đây chỉ theo đúng như lời tiên tri.

Ngọn núi chính nằm ở trung tâm tiểu châu lục có màu đồng và chân núi nằm sâu trong đại dương, đến tận xứ sở của các Naga. Đỉnh núi xuyên thủng bầu trời, đến cả nơi ở của các Phạm Thiên trong Sắc giới. Nơi đỉnh núi này có một cõi Tịnh Độ diệu kỳ do Guru Rinpoche kiến tạo. Có ba tầng : Trên cùng là tầng Pháp Thân, nơi thể tánh của Guru Rinpoche hiện bày trong thân tướng Đức Vô Lượng Thọ Phật; tầng giữa là trú xứ của Đức Quán Thế Âm và tầng dưới cùng là nơi Guru Rinpoche an trụ trong thân tướng bình thường của mình. Ngài được bao quanh bởi tám hóa thân.

Khi hiện diện trong thế giới này, Guru Rinpoche là hóa hiện về thân của Đức Phật A Di Đà, hóa hiện về ngữ của Đức Quán Thế Âm và hóa hiện về tâm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi lưu xuất đến thế giới của chúng ta, đầu tiên, Ngài xuất hiện trong cõi Báo Thân trong hình tướng năm bộ tộc Thotreng Tsal, sau đó là tám [8] và mười hai [12] hóa thân, vân vân cho đến khi năm mươi [50] hóa thân xuất hiện. Sau cùng, Guru Rinpoche lưu xuất vô số các hóa hiện khác nhau.

Trước khi Đức Liên Hoa Sinh rời khỏi Tây Tạng, Ngài ban nhiều tiên tri, chôn giấu nhiều giáo lý để dành cho tương lai và gia trì cho các môn đồ thân thiết trở nên bất khả phân với Ngài. Như thế, các vị ấy sẽ tái sinh trong tương lai, khai quật các bảo tạng chôn giấu và có oai đức dũng mãnh như chính Guru Rinpoche, viên mãn các uy lực thần thông siêu việt, chẳng hạn như bay lượn trên trời, du hành tự tại xuyên vật chất rắn, có năng lực diễn giải vô ngại các kinh điển và luận điển cũng như nghĩa lý của các mật điển.

Đặc biệt, Ngài đã tiên tri sự xuất hiện của 108 vị terton vĩ đại, “các bậc khám phá kho tàng giáo lý chôn giấu”. Lịch sử thế giới đổi thay bất thường, tạo ra nhiều trở ngại lớn trong các giai đoạn khác nhau. Do đã tiên liệu được những gián đoạn lịch sử này, Guru Rinpoche soạn nhiều thực hành đặc biệt để các vị terton riêng biệt khám phá vào đúng thời điểm nhằm rộng độ quần sinh. Các vị Khai mật tạng khám phá các terma, “kho tàng giáo lý chôn giấu”, sẽ hoằng truyền một giáo lý hoàn toàn trong sạch và thích hợp với thời đại vốn chỉ dành riêng cho thời điểm và hoàn cảnh cụ thể.

Cũng như việc chúng ta thích những món ăn tươi ngọn, được chuẩn bị theo cách thức không làm chúng ta bị bệnh gây ra do sự ôi thiu, các giáo lý terma được khám phá với một “dòng truyền ngắn” được gia trì một phẩm chất vô cùng đặc biệt. Bởi đặc tính dòng truyền ngắn hi hữu mà các giáo lý đó không bị gián đoạn bởi bất kỳ sự hủy hoại hay gãy bể giới nguyện [samaya]. Không một ai tự ý thêm bớt mà giáo lý ấy truyền trực tiếp từ Guru Rinpoche thông qua phương tiện là sự phát lộ từ các đệ tử của Ngài, hóa hiện tái sinh vào thời đại ngày nay, những người truyền bá các giáo lý cho mọi người thực hành ngay lập tức.


Giáo lý Đạo Sư Tâm Pháp Trừ Nhất Thiết Chướng [Lamay Thugdrub Barche Kunsel] thuộc về loại giáo lý này. Kinh văn giáo lý này dựa trên nghi quỹ Đạo Sư. Khi tôi thọ nhận dòng pháp Thắng Bảo Phục Tạng [Rinchen Terdzo] từ hóa thân tái sinh trước đây của Jamgon Kongtrul, vị tái sinh trực tiếp sau Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, một ngày nọ, tôi được nghe Ngài dạy như thế này :

“Trong cuộc đời mình, ta cử hành drubchen (thực hành nghi quỹ Barche Kunsel trong một tuần) ba lần. Mỗi lần như thế đều xuất hiện vài dấu hiệu thánh linh vô cùng vi diệu.

Lần đầu tiên mà chúng ta cử hành drubchen, bánh torm chính trên ban thờ bắt đầu lưu xuất cam lộ, không chỉ có chút ít mà đủ để tràn khắp ban thờ và chảy xuống sàn ra đến lối đi vào chính điện. Mọi người nếm thử và nói rằng nó có vị rất đặc biệt, ngọt mà thấm đẫm sâu xa, không gì trên thế giới này có thể sánh được. Lần thứ hai khi ta cử hành drubchen thì kapala, “chén sọ” có chứa cam lộ, bắt đầu sôi lên và cứ thế sôi cho đến khi kết thúc drubchen. Lần thứ ba mà ta cử hành drubchen, chúng ta chuẩn bị mendrub, “pháp dược”, cùng lúc đó. Mùi hương từ mendrub tỏa ra vô cùng diệu hảo, không giống bất kỳ thứ gì mà người ta đã từng ngửi qua trong thế giới này. Mùi hương lan xa đến tận tu viện của Thrangu Rinpoche, một khoảng cách phải mất bốn ngày đi bộ. Mọi người ở tu viện ấy đều hỏi hương thơm xuất phát từ đâu. Trong suốt đời mình, ta chưa từng chứng kiến dấu hiệu nào vi diệu như các dấu hiệu đó trong suốt ba lần.”

Điều này xuất hiện có thể do sự kết hợp của giáo lý terma thâm diệu và một bậc Đại Đạo sư lỗi lạc. Khi các Đại Đạo sư thực hành một terma trong sạch, lúc ban đầu luôn có những ân phước gia hộ to lớn bởi vì “hơi thở của chư Dakini” vẫn chưa đến lúc tan biến khỏi terma. Do vậy, các giáo lý terma cùng một dòng truyền ngắn sở hữu một ân phước gia trì và hiệu dụng cực kỳ to lớn với những ai thực hành chúng.

Trong nghi quỹ Đạo Sư chính của Barche Kunsel có bốn bản văn : bản dài là Trinley Gyepa, bản trung bình là Trinley Dringpo, bản cô đọng trung bình giống như tinh yếu là Trinley Nyingpo và bản tối tinh yếu là Thực Hành Mỗi Ngày. Điều đó không có nghĩa là bản này thiếu sót hay mất mát khi được cô động – thậm chí, nó còn quý báu hơn, giống như bơ được trích xuất từ sữa vậy.

Trong mạn đà la của thực hành này, Guru Rinpoche được bao quanh bởi mười hai [12] hóa thân của chính Ngài, vốn bất khả phân với mười hai chư Tôn khác nhau. Sự không tách rời giữa hai phương diện Hộ Phật và Đạo Sư được gọi là “mười hai hiển lộ.” Thêm nữa, phía trên đầu Guru Rinpoche là Đức Vô Lượng Thọ Phật, đại diện của Pháp thân. Phía dưới Đức Vô Lượng Thọ là Đức Quán Thế Âm, đại hiện của Báo thân. Guru Rinpoche là đại diện của Hóa thân. Tại các phương chính và phụ là bốn [4] và tám [8] hóa thân xuất hiện theo thứ tự - tổng cộng là mười hai hóa thân. Tại bốn cửa trong bốn phương là bốn vị Hộ Môn. Đây là chư Tôn bên trong mạn đà la này.

Người ta nói rằng các kinh văn mật điển Mahayoga được hàm chứa trong kinh văn Anu Yoga và kinh văn của Anu Yoga được hàm chứa trong chỉ dẫn khẩu truyền của Ati Yoga. Tất cả các kinh văn này được chứa đựng trong các bản văn nghi quỹ, những thứ được chứa đựng trong sự thực hành của chính bạn.

Trong bản văn đang được đề cập này, tất cả các thứ lớp của chư Tôn được hiện diện trong mười hai hóa hiện của Guru Rinpoche, chẳng hạn như Tám Đại Minh Vương [heruka], các Mamo, các Tôn an bình và phẫn nộ, Yamantaka cũng như Kilaya và Gongdu. Chư Tôn thiết yếu này trong truyền thống Nyingma được gọi là Ka, Gong và Phur, đại diện cho Kagye (Bát Minh Vương Pháp), Gongdu (Lama Gongdu, hiện thân về tâm của chư Đạo Sư) và Phurba (Vajra Kilaya, Kim Cương Phổ Ba).

Trong giáo lý Tâm Pháp Trừ Nhất Thiết Chướng [Thugdub Barche Kunsel], mười hai hóa hiện này tương ứng với các hóa thân của Guru Rinpoche. [1] Gyalway Dungdzin là Padma Gyalpo, [2] Marway Senge là Manjushri, [3] Kyechok Tsulzang là Jambhala, [4] Dukyi Zhechen là Dorje Phurba, [5] Dzamling Gyenchok là Vishuddha Heruka, [6] Pema Jungne là Urgyen Dorje Chang, [7] Kyepar Phakpay Rigdzin là Guru Rinpoche điều phụ không hành chúng và tinh linh, [8] Dzutrul Thuchen là Dorje Drollo, [9] Dorje Draktsal là Guru Drakpo và Pema Heruka, [10] Kalden Drendzey là tập hợp tám Minh Vương, đặc biệt là Palchen Heruka, [11] Raksha Thotreng là Vajrapani và [12] Dechen Gyalpo là Gongdu và Chakrasamvara.


Trong quá khứ, khi Guru Rinpoche thực hành các bộ pháp Kagye, Gongdu, Phurba và tất cả chư Tôn khác, Ngài trở nên bất khả phân với chư Tôn. Do đó, phước lành gia hộ càng mãnh liệt hơn, thành tựu càng mau chóng hơn và thực hành càng siêu vượt hơn bất kỳ bộ pháp nào. Đây là lí do Barche Kunsel có được ân phước gia trì mãnh liệt và thành tựu mau chóng hơn những terma khác của Chokgyur Lingpa. Vì lẽ đó, không một chướng ngại nào có thể xuất hiện. Những chỉ dẫn khẩu truyền của chính bậc Đại Khai Mật Tạng [Chokgyur Lingpa] nói rằng nếu một hành giả có thể hoàn thiện các thực hành dẫn nhập theo Barche Kunsel thì hành giả đó sẽ không gặp phải bất kỳ chướng ngại nào. Đây là lời hứa nguyện được truyền lại cho đến tận Bổn sư của tôi.

Terma này được phát lộ và thời khắc thực sự nào? Chokgyur Lingpa và Jamyang Khyentse đến một nơi gọi là Da-Nying Khala Rong-Go. Giữa các vách đá và nơi mà terma được chôn giấu là con sông lớn Tsangpo (Phạm Thiên Tử]. Vách đá hướng về địa điểm cực kỳ dốc.

Chokgyur Lingpa và Jamyang Khyentse, cùng với đoàn tùy tùng rộng lớn, đến chỗ vách nhìn ra sông Tsangpo. Chokgyur Lingpa chỉ vào bờ bên kia và nói : “Phía bên đó có một terma nơi các khối đá trắng mà ta phải lấy ra.” Các thị giả của Ngài thưa : “Vâng nhưng ít nhất phải đi bộ một ngày mới đến được đó. Đầu tiên, Ngài phải leo xuống vách này, tìm chỗ vượt qua sông và đi bộ ngược lên đúng địa điểm phía bên kia. Đó là hành trình đi bộ ít nhất một ngày.” Chokgyur Lingpa nói : “Không, không, không! Không mất nhiều thời gian gì đâu. Có một cách rất dễ dàng để đến đó.” Nói xong, Ngài cởi khăn choàng và dùng nó làm “đôi cánh”, Ngài chỉ việc bay lên hư không đến bờ bên kia của con sông. Khi đáp xuống, Ngài phát lộ terma. Lúc quay về, Ngài chỉ băng qua dòng nước và leo lên bờ bên kia. Tất cả mọi người chứng kiến điều này đều vô cùng kinh ngạc và cảm nhận rằng Ngài thực sự sở hữu những oai đức thần thông. Các vị terton đều là những người như thế.

Thực hành Guru Rinpoche cực kỳ quan trọng bởi vì Guru Rinpoche, Đấng Liên Hoa Sinh, không chỉ là một nhân vật hư cấu huyền thoại trong một câu chuyện cổ xưa nào đó. Ngài là một nhân vật có thật, không ngừng hiện bày các hoạt động tự nhiên, không chỉ bằng việc gửi đi những hóa thân của mình đến thế giới này trong hình hài các terton để luôn luôn phát lộ giáo lý trong sạch, vẹn nguyên cho mọi người thực hành, mà còn bởi vì phước lành gia hộ và năng lực tâm linh của Guru Rinpoche không phai nhạt. Nếu chúng ta có thể thực hành nghi quỹ này thì lợi lạc có được thật to lớn.

Nếu chúng ta có thể thực hành theo một cách sâu rộng, nương theo ba bản nghi quỹ thì tất nhiên là tốt nhất; không được như thế thì thực hành bản nghi quỹ tinh yếu – độ dài chỉ một trang rưỡi – tên là Nghi Quỹ Thực Hành Cô Đọng Mỗi Ngày hay Gyungyi Koljang. Nếu chúng ta còn không có thời gian thực hành nghi quỹ này, ít nhất, chúng ta nên trì tụng Bài Nguyện Sáu Dòng đến Guru Rinpoche mở đầu bằng Dusum sangye Guru Rinpoche, nghĩa là Hiện thân chư Phật ba đời, Guru Rinpoche và vân vân. Mỗi ngày, chúng ta nên trì ít nhất một chuỗi [108] minh chú Kim Cương Đạo Sư. Điều này đem lại lợi ích cực kỳ to lớn cho sự tiến bộ bản thân chúng ta bởi vì Guru Rinpoche, đấng đản sinh diệu kỳ, hoàn toàn nằm ngoài sự tổn hại của Quỷ Thần hay Người. Hơn nữa, Ngài hóa hiện đầy huy hoàng trong hình tướng một Đấng Điều Phục các sắc tướng và nghĩa lý của thế gian và chúng sinh. Do vậy, thực hành Guru Rinpoche và trì tụng minh chú của Ngài tiêu trừ tất cả chướng ngại và thành tựu mọi thắng duyên an hòa.

Ngày 01/01/2015, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Erik Pema Kunsang được dịch trong quyển sách "Dispeller of Obstacles". Đây là một phần rất hay trong quyển sách, không chuyên sâu về truyền thừa mà vẫn giữ trọn vẹn ý nghĩa của kho tàng Trừ Nhất Thiết Chướng nên tôi tin rằng việc chuyển ngữ sẽ làm hài lòng Guru Rinpoche, chư Tổ và chư Đạo sư cao thượng. Trong cuộc sống, chúng ta có thể đối diện những gian nan nhưng nếu chúng ta luôn giữ Guru Rinpoche trong tim mình thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Đó là một trong những lí do mà Guru Rinpoche xuất hiện trên thế giới này. Nguyện cầu tất cả chúng sinh đều được an vui, hạnh phúc, mọi sự tốt lành và vạn sự như ý. In Guru We Trust.
Read More

Wednesday, 31 December 2014

Prayer to the Precious Master Padmakara


༈ སློབ་དཔོན་རིན་པོ་ཆེ་པདྨ་འབྱུང་གནས་ལ་གསོལ་འདེབས་པ་བསམ་དོན་མྱུར་གྲུབ་བཞུགས།

NGUYỆN CẦU ĐẤNG ĐẠO SƯ LIÊN HOA SINH TÔN QUÝ


ཨོཾ་ཨཱཿཧཱུྃྃ་བཛྲ་གུ་རུ་པདྨ་སིདྡྷི་ཧཱུྃྃ།
སྐྱབས་གནས་ཀུན་འདུས་ཨོ་རྒྱན་རིན་པོ་ཆེ། །
བཟོད་མེད་གདུང་ཤུགས་དྲག་པོས་གསོལ་བ་འདེབས། །
ཕྱི་ནང་གསང་བའི་བར་ཆད་དབྱིངས་སུ་སོལ། །
བསམ་དོན་ཆོས་བཞིན་འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས། །

OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
Kyab-ne kun-du or-gyen rin-po-che
Zo-med dung-shug drag-po sol-wa deb
Chi-nang sang-way bar-che ying-su sol
Sam-don cho-zhin drub-par jin-gyi lob

OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
The embodiment of all refuge objects, Orgyen Rinpoche,
We pray to you with all overwhelming fervency.
Please, dispel outer, inner and secret obstacles into space.
Please, bless us so that our wishes are fulfilled according to Dharma.

OM A HUNG BENZA GURU PEMA SIDDHI HUNG
Chúng con nhất tâm chí thành kính dâng lời cầu nguyện
Đến hiện thân của tất cả cội quy y, Orgyen Rinpoche.
Xin tiêu trừ chướng ngại ngoài, trong, mật thành hư vọng.
Xin gia hộ mọi điều mong mỏi nương Chánh Pháp viên thành.

ཞེས་པའང་འཇམ་དབྱངས་མཁྱེན་བརྩེའི་དབང་པོས་རྩེ་གཅིག་ཏུ་གུས་པས་གང་ཤར་ཤུགས་བྱུང་དུ་གསོལ་བ་བཏབ་པ་དགེའོ།། །།

With single-minded devotion, Jamyang Khyentse Wangpo prayed according to whatever appeared in the mind. Virtue!

Với lòng sùng kính chí thành, Jamyang Khyentse Wangpo cầu nguyện theo những gì xuất hiện trong tâm. Nguyện thiện lành!

Translated into English by Mingyur Oswin, 2014.

Ngày 31/12/2014 ~ thánh vía Guru Rinpoche, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin. Nguyện chư chướng ngại tiêu trừ và mọi ước nguyện thành tựu cho muôn loài.
Read More

Monday, 29 December 2014

Instruction on Parting from the Four Attachments


ཞེན་པ་བཞི་བྲལ་གྱི་གདམས་པ།

CHỈ DẪN GIẢI THOÁT BỐN ĐIỀU BÁM CHẤP

ཨོཾ་སྭསྟི་སིདྡྷཾ། བླ་མ་ས་སྐྱ་པ་ཆེན་པོ་དགུང་ལོ་བཅུ་གཉིས་བཞེས་པའི་ཚེ། འཕགས་པ་འཇམ་པའི་དབྱངས་ཀྱི་སྒྲུབ་པ་ཟླ་བ་དྲུག་མཛད་པས། དུས་གཅིག་གི་ཚེ་འོད་ཚོགས་ཀྱི་དབུས་ན་རིན་པོ་ཆེའི་ཁྲི་གཅིག་གི་སྟེང་ན་རྗེ་བཙུན་འཇམ་དབྱངས་དམར་སེར་ཆོས་འཆད་ཀྱི་ཕྱག་རྒྱ་ཅན། བཟང་པོའི་སྟབས་ཀྱིས་བཞུགས་པ། འཁོར་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་གཉིས་གཡས་གཡོན་དུ་གནས་པ་མངོན་སུམ་གཟིགས་ཏེ། གཙོ་བོའི་ཞལ་ནས།

OM SVATI SIDDHAM! When the great Lama Sakya was 12 years old, he undertook practice on the Arya Manjushri in six months. One day, he directly saw the Arya Manjushri appear with excellent position on one precious throne, orange in color and hands in the mudra of explaining the Dharma, together with two Bodhisattvas around. The lord spoke to him :

OM SVATI SIDDHAM! Khi Đấng Đạo sư Sakya vĩ đại [Sachen Kunga Nyingpo] được 12 tuổi, Ngài thực hành miên mật về Thánh Văn Thù Sư Lợi trong 6 tháng. Một ngày nọ, Ngài trực diện nhìn thấy Thánh Văn Thù Sư Lợi xuất hiện trong tư thế diệu hảo trên một tòa báu, thân sắc cam và hiện bày thủ ấn giảng Pháp, tùy tùng là hai vị Bồ Tát tả hữu. Đấng Tôn Chủ tuyên thuyết :


༈ ཚེ་འདི་ལ་ཞེན་ན་ཆོས་པ་མིན། 
འཁོར་བ་ལ་ཞེན་ན་ངེས་འབྱུང་མིན། 
རང་དོན་ལ་ཞེན་ན་བྱང་སེམས་མིན། 
འཛིན་པ་འབྱུང་ན་ལྟ་བ་མིན།

Tshe di la zhen-na cho-pa min
Khor-wa la zhen-na nge-jung min
Rang-don la zhen-na jang-sem min
Dzin-pa jung na ta-wa min

Attached to this life, you are not a practitioner.
Attached to the samsara, you do not have renunciation.
Attached to your own benefit, you do not have bodhicitta.
Let grasping appear, you do not have the view.

Bám chấp vào đời sống, sao xứng gọi người tu.
Luyến lưu chốn luân hồi, không đạt hạnh ly xả.
Chỉ biết lợi chính mình, chẳng phải bồ đề tâm.
Sinh lòng ưa chấp thủ, đâu có được chánh kiến.

ཞེས་གསུངས་པའི་དོན་ལ་དཔྱད་པས། ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་ལམ་གྱི་ཉམས་ལེན་ཐམས་ཅད་ཞེན་པ་བཞི་དང་བྲལ་བའི་བློ་སྦྱོང་དུ་འདུ་བར་དགོངས་ཏེ། ཆོས་ཐམས་ཅད་ལ་ངེས་ཤེས་ཁྱད་པར་ཅན་ཐོབ་པ་ཡིན་ནོ། ། ས་མཱཔྟ་མི་ཐི།། །།

Analyzing the meaning of these words, he realized the mind training of parting from these four attachments includes the entire profound practice of the path of paramitas and he gained the extraordinary certainty to all Dharma teachings. Samaptamithi!

Suy nghiệm về diệu nghĩa của những lời này, Ngài nhận ra việc rèn luyện tâm thông qua sự từ bỏ bốn điều bám chấp này hàm chứa toàn bộ thực hành sâu rộng về con đường của các Ba La Mật và Ngài có được sự xác tín sâu xa về tất cả những điều Phật dạy. Samaptamithi!

Translated into English by Mingyur Oswin, 2014.

Ngày 29/12/2014 ~ thánh vía Đức Phật Dược Sư, Quan Orgyen chuyển ngữ theo bản tiếng Anh của Mingyur Oswin, có tham khảo bản tiếng Anh của Rigpa Translations, 2012. Nguyện tất cả chúng sinh sớm thể nghiệm trí tuệ chánh biến tri của chư Phật và viên mãn các Ba La Mật.
Read More